Hot Posts

6/recent/ticker-posts

Thay đổi tập quán mua CIF bán FOB, đâu chỉ nói suông?

Tậpquán bán FOB, mua CIF nếu được thay đổi sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn cho doanhnghiệp khi truớc mắt là doanh nghiệp có cơ hội kiếm thêm lợi nhuận, và về lâudài sẽ tạo thêm công ăn việc làm cho chính doanh nghiệp xuất nhập khẩu, xa hơnlà các doanh nghiệp ngành vận tải, cảng biển và dịch vụ logistics nước nhà pháttriển. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc kêu gọi suông chắc chắn sẽ không có mộtsự thay đổi dễ dàng.

Nguyênnhân hình thành nên tập quán bất lợi này?

Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hầu hếtkhông phải là doanh nghiệp lớn nên việc hình thành nên các bộ phận chuyên tráchvề xuất nhập khẩu có am hiểu về các nghiệp vụ thuê tàu, đàm phán bảo hiểm... làkhông hề dễ dàng nhất là trong tình hình kinh tế khó khăn như hiện nay.


Do cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam mang lạichủ yếu là nhập máy móc, nguyên phụ liệu… phục vụ sản xuất, phần lớn được mua từcác doanh nghiệp lớn của nước ngoài, họ có kinh nghiệm nhiều năm kinh doanh, cóquan hệ với các doanh nghiệp vận tải quốc tế, doanh nghiệp bảo hiểm... Do đó, họsẽ chủ động hơn trong việc dành ưu thế đàm phán các điều khoản trong hợp đồngthương mại. Một ví dụ trường hợp doanh nghiệp trong nước cần mua trang thiết bịcho sản xuất với máy móc quá khổ, quá tải thì việc tìm tàu vận tải từ các doanhnghiệp trong nước là không thể, bởi đội tàu Việt Nam không có tàu để vận chuyểnloại hàng này. Ngoài ra, việc phải kết hợp với doanh nghiệp vận tải để giao hàngloạt đơn hàng khắp nơi của nhà xuất khẩu sẽ dễ dàng hơn so với việc nhập nhỏ lẻsố lượng hàng của nhà nhập khẩu Việt Nam.

Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thì chủyếu xuất khẩu hàng hóa thô, sơ chế, các sản phẩm từ tài nguyên thiên nhiên...thì việc cạnh tranh về năng lực vận tải, năng lực khai thác đều khó sánh vớidoanh nghiệp nước ngoài, do đó, các đối tác nước ngoài thường có ưu thế hơntrong đàm phán hợp đồng và thường giành quyền vận tải. Những năm gần đây việckhai thác cát nhiễm mặn là một ví dụ điển hình khi doanh nghiệp Việt Nam chỉ locó đủ thủ tục cần thiết rồi bán cát ngay dưới mặt nước để doanh nghiệp nướcngoài đưa thiết bị vào khai thác thì lợi nhuận từ khai thác, xếp dỡ, vận chuyển...tất nhiên chảy vào túi các doanh nhân nước ngoài.

Nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu ViệtNam chỉ thực hiện công đoạn gia công cho các doanh nghiệp lớn của nước ngoài,nên việc họ dành quyền ưu tiên về vận tải, bảo hiểm là điều đương nhiên.

Doanh nghiệp FDI cũng tương tự như vậykhi họ luôn hình thành các công ty trung gian thương mại tại các nước và vùnglãnh thổ có ưu đãi về thuế như Hongkong, Singapore... để đứng ra ký các hợp đồngvận tải. Đó là còn chưa kể một số doanh nghiệp đã hình thành nguyên cả quytrình khép kín từ sản xuất đến phân phối từ trước khi đầu tư vào Việt Nam thìviệc chen chân vào lĩnh vực này đối với các doanh nghiệp non trẻ của Việt Namlà bất khả thi.

Doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam phần lớnlà những doanh nghiệp có quy mô nhỏ không có tài chính đủ mạnh mà chủ yếu phảinhờ sự trợ giúp của ngân hàng, trong khi đó các thủ tục để rút tiền nhiều lần đểtrả tiền hàng, tiền thuê tàu, thuê bốc dỡ hàng, mua cước phí bảo hiểm... đã làmchùn chân doanh nghiệp.

Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, do chủ yếulà các mặt hàng nguyên phụ liệu thô, tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản... chỉriêng việc chuẩn bị các thủ tục xuất khẩu chính thức và không chính thức đã ngốnhầu hết khả năng tài chính của họ thì việc nhanh chóng bán luôn tại cảng, haythậm chí tại mỏ, kho là điều doanh nghiệp mong muốn để nhanh chóng thu hồi vốn.

Việc đội tàu Việt Nam chỉ dành được khoảng10% lượng hàng vận chuyển xuất nhập khẩu tại Việt Nam là điều hoàn toàn dễ hiểukhi đội tàu Việt Nam hiện tại thừa số lượng nhưng lại thiếu và yếu về chất lượng.Những yêu cầu về tàu chở hàng ro-ro, liner thì doanh nghiệp vận tải biển ViệtNam hoàn toàn không thể đáp ứng được. 

Trong khi các doanh nghiệp hoạt độngtrong lĩnh vực logistics quốc tế có cả hệ thống chân rết khắp thế giới thì cácdoanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam chỉ là những đại lý với số vốn hạn chếthì việc đảm nhận vai trò bao tiêu toàn bộ từ kho của nhà sản xuất đến ngườimua là rất khó khăn. Hơn nữa, việc cạnh tranh không lành mạnh giữa những doanhnghiệp này để tồn tại cũng góp phần đáng kể cho việc cùng nhau nhường thị phầnvề tay nước ngoài.

Một yếu tố rất quan trọng trong quá trìnhxuất nhập khẩu đó là vai trò của quản lý ngoại hối. Ngoài việc điều tiết tỷ giácó lợi cho việc xuất nhập khẩu thì các thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài luônlàm nản lòng các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam và họ lựa chọn giải pháp an toàn,chỉ chuyển tiền một lần cho người bán. 

Giải quyết thế nào?

Cùng với việc dịch chuyển cơ cấu xuất nhậpkhẩu, đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có tỷ lệ lợi nhuận cao với sự hỗ trợ củanhà nước thì bản thân các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần phải cải thiện mạnh mẽkhả năng thích nghi của mình để dành thế chủ động trong đàm phán hợp đồng. Bêncạnh đó, quản lý nhà nước, ngân hàng cũng cần phải thay đổi để đem lại những sựthuận tiện hơn nhằm góp phần thay đổi tập quán mua CIF, bán FOB, tạo điều kiệncho các doanh nghiệp dịch vụ logistics cũng như cảng biển phát triển và điềuquan trọng hơn là đưa về nhiều lợi nhuận hơn cho các nhà xuất nhập khẩu. Songsong đó bản thân các doanh nghiệp dịch vụ vận tải, logistics cũng cần phải tựmình phát triển hoàn thiện hơn để dễ dàng dành được sự tin cẩn uỷ thác của cácnhà xuất nhập khẩu.

La Quang Trí    

Post a Comment

0 Comments